Vận hành một quốc gia hoặc cai trị một đế chế đòi hỏi phải có nguồn lực. La Mã cũng không ngoại lệ trong vấn đề này. Do đó, thuế dùng để chi trả cho hoạt động của chính quyền, rất giống với ngày nay. Ngoài ra, Hoàng Đế còn sử dụng nguồn thuế “để chi trả cho các công trình xây dựng và nhu cầu cá nhân của mình ở La Mã.”
Nhà thần học F. F. Bruce giải thích rằng sau khi A-chê-la-u (Archelaus) bị đày đến Gaul vào năm 6 SCN, “Giu-đê được trao địa vị là một tỉnh La Mã cấp ba, do một quan tổng trấn được Au-gút-tơ (Augustus) bổ nhiệm từ tầng lớp kỵ sĩ cai trị. Một tỉnh như vậy phải cống nộp cho La Mã, và vì vậy một cuộc kiểm tra dân số đã được tiến hành… để đánh giá mức thu nhập hằng năm mà tỉnh mới này có thể được trông đợi sẽ đóng góp.”
Như vậy, việc đánh thuế của La Mã đã đến với khu vực của người Do Thái. Độc giả Tân Ước cũng dễ dàng nhận thấy được tác động của “thuế” trong những cuộc bàn luận về thuế và sự khinh ghét dành cho những người thu thuế (Mat-thi-ơ 9:9-11).
Thuế này là gì?
Thuế ở đây được biết đến là thuế thân La Mã. Nhưng không áp dụng tại Ga-li-lê, vốn do Hê-rốt An-ti-ba trị vì.
Thuế thân La Mã thuế này bị người Do Thái yêu nước kịch liệt phản đối và dẫn đến cuộc nổi dậy do Giu-đa người Ga-li-lê lãnh đạo cùng với Xa-đốc (Zadok/Sadduc) người Pha-ri-si. Sau này, phong trào ấy đã truyền cảm hứng cho cuộc khởi nghĩa năm 66 SCN, cuối cùng đưa đến sự phá hủy đền thờ năm 70 SCN. Giô-sép, sử gia Do Thái đã bình luận như sau:
“Người Do Thái, mặc dù ban đầu họ tiếp nhận tin tức về việc đánh thuế với sự phẫn nộ, nhưng rồi họ đã chấm dứt mọi sự chống đối, nhờ sự thuyết phục của Joazar, con trai của Beethus và là thầy tế lễ thượng phẩm. Vì thế, họ, bị thuyết phục bởi lời của Joazar, đã kê khai tài sản của mình mà không có sự tranh luận nào về điều đó. Tuy nhiên, có một người tên là Judas, một người Gaulonite, từ một thành phố có tên là Gamala, người đã cùng với Sadduc, một người Pha-ri-si, trở nên sốt sắng để lôi kéo dân chúng nổi loạn. Cả hai đều nói rằng việc đánh thuế này chẳng khác nào sự khởi đầu của ách nô lệ, và kêu gọi cả dân tộc hãy đòi lại tự do của mình;” (Antiquities, quyển 18.1.1)
Đồng tiền nộp thuế
Theo truyền thống, câu trả lời cho rằng đồng xu nộp thuế La Mã là một đồng Đê-na-ri (denarius) của hoàng đế Ti-bê-ri-út (Tiberius). Bởi vì ông là hoàng đế lúc bấy giờ, và thứ hai là vì bản dịch Kinh Thánh gợi ý rằng đồng xu đó là một Đê-na-ri (denarius): trong bản văn Hy Lạp có dùng từ δηνάριον (dēnarion), tức là một Đê-na-ri (denarius) của người La Mã (Ma-thi-ơ 22:19).
Đồng đê-na-ri là đồng tiền dùng đóng để thuế thời bấy giờ. Đồng đê-na-ri được làm bằng bạc. Một Đồng đê-na-ri có trị giá bằng tiền công một ngày làm việc.
1. Mặt trước
Chữ khắc: TI CAESAR DIVI AVG F AVGVSTVS
Ý nghĩa: “Sê-sa Ti-bê-ri-út (Tiberius Caesar), con trai của Thần A-gút-tơ (Augustus), A-gút-tơ (Augustus).”
2. Mặt sau
Chữ khắc: PONTIF MAXIM
Ý nghĩa: “Đại Tế Sĩ Tối Cao” (chức vụ tôn giáo tối cao trong La Mã).
 
			 
				

